Tự hào Việt Nam

TAP CHÍ LANGBIAN|9/28/2022 9:11:53 AM

 

Tự hào Việt Nam

                           HÀ HỮU NẾT

 

 

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập - khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 77 năm đã trôi qua, nhưng áng văn lập quốc của Bác Hồ vẫn độc đáo, sáng tạo, là niềm tự hào của Việt Nam.

Mốc son lịch sử

Theo chiều dài lịch sử, những bậc tiền hiền đã để lại kiệt tác mang tầm vóc, ý nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập như Nam quốc sơn hà (1077), Bình Ngô đại cáo (1428), nhưng phải đến năm 1945, một tác phẩm chính danh là Tuyên ngôn Độc lập (TNĐL) mới được Hồ Chí Minh soạn thảo. Do tính chất thời đại, bản TNĐL hướng tới toàn thể Nhân dân Việt Nam và mọi quốc gia trên thế giới. Có thể khẳng định, đây là tuyên bố ngoại giao đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự đặc biệt của TNĐL còn nằm ở tình cảm, tâm trạng của người viết. Là nhà thơ, nhà văn, nhà báo lão luyện với hàng ngàn trang viết, nhưng lần này Bác Hồ đã “không giấu nổi sự sung sướng” khi được thảo áng văn lập quốc. Chứa đựng trong đó, là niềm hạnh phúc vô hạn của người lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, nay đã thành công. Giấc mơ về “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” của Người, đã tạo nên cảm xúc mãnh liệt nơi ngòi bút. Bác soạn thảo TNĐL hết sức đặc biệt, suy ngẫm rất lâu, nhưng viết rất nhanh. Là người có niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cách mạng và khả năng dự đoán tương lai, chắc chắn Bác Hồ đã nhiều lần suy ngẫm về thời khắc thiêng liêng này. Thực tế, Người chính thức soạn thảo TNĐL từ ngày 28/8/1945 - sau khi Chính phủ lâm thời được thành lập, Người được bầu làm Chủ tịch. Điều kiện lịch sử phức tạp lúc ấy, đòi hỏi Việt Nam phải tuyên bố nền độc lập của mình, trước khi quân Đồng minh vào tước vũ khí của Nhật. Dù viết trong thời gian ngắn, nhưng từng ý, từng câu trong TNĐL vẫn đạt “độ chín” cả về tư tưởng lẫn thủ pháp nghệ thuật.

Nhà tư tưởng lớn

TNĐL chứa đựng nhiều thông điệp quan trọng, nhưng tất cả đều xoay quanh “trục” nền độc lập chính đáng, không thể bác bỏ của Việt Nam. Với tầm nhìn của một chính khách lão luyện, Hồ Chí Minh hiểu rằng: Con đường đi đến độc lập - tự do đầy máu và nước mắt nhưng làm cho thế giới, nhất là các nước lớn thừa nhận, tôn trọng nền độc lập là hết sức khó khăn. Vì thế, trong TNĐL Hồ Chí Minh phải đưa ra cơ sở pháp lý về quyền độc lập của Việt Nam. Người mở đầu áng văn lập quốc, bằng những câu trích từ Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789) về quyền sống, quyền tự do của con người. Từ đó, Người nâng quyền con người đã được thừa nhận trong xã hội phương Tây thành quyền dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Theo đó, Hồ Chí Minh gián tiếp khẳng định trong thời đại chống đế quốc, thực dân, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là cuộc đấu tranh chính nghĩa. Giá trị thời đại của TNĐL nằm ở đó. “Suy rộng ra” của Bác ở thời điểm năm 1945, còn thể hiện tính tiên phong của một nhà tư tưởng lớn, vì lúc này quyền dân tộc chưa được quốc tế đề cập. Phải 21 năm sau - năm 1966 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị mới khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều có quyền dân tộc tự quyết” và gần 50 năm sau - Tuyên bố Vienna của Liên hiệp quốc mới ghi rõ: “Việc khước từ quyền dân tộc, tự quyết là vi phạm nhân quyền”. Sự “suy rộng ra” của Bác còn thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Nếu văn hóa phương Tây đề cao cá nhân, thì văn hóa phương Đông đề cao cộng đồng. Trong bản TNĐL, Bác Hồ đã lấy dân tộc làm bản thể, thay vì lấy cá nhân làm bản thể. Quan điểm của Người đã thể hiện truyền thống văn hóa phương Đông: Quyền lợi cá nhân phải gắn kết và đặt dưới quyền lợi cộng đồng, dân tộc. Khi quyền con người, quyền bình đẳng giữa các dân tộc là chỉ số văn minh của nhân loại, thì TNĐL của Hồ Chí Minh đã góp phần thúc đẩy lịch sử nhân loại tiến lên.

Tự hào Việt Nam

Ra đời giữa thế kỷ XX, TNĐL kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc và tính thời đại. Trong lịch sử nước ta, các tác phẩm mang tầm vóc, ý nghĩa của bản tuyên TNĐL như Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo đều được viết bằng tiếng Hán. Hồ Chí Minh là người đầu tiên viết TNĐL bằng tiếng Việt. Xác định rõ câu hỏi “Viết cho ai” nên từ ngữ, hình ảnh TNĐL đều thuần Việt, giản dị và dễ hiểu đối với đông đảo quần chúng. Không dừng lại ở cương vực dân tộc, TNĐL còn có đích đến là các quốc gia trên thế giới nên cách lập luận và hành văn cũng rất hiện đại. Chỉ vẻn vẹn hơn 1.000 chữ, TNĐL có sức mạnh lẽ phải, phù hợp với tư duy “duy lý” của phương Tây. Để khẳng định quyền độc lập của Việt Nam, Hồ Chí Minh đưa ra căn cứ pháp lý, mang tính chân lý trong TNĐL của Mỹ và Tuyên ngôn của Pháp về quyền tự do của con người. Với phương pháp dùng “Gậy ông đập lưng ông”, Bác Hồ vừa đẩy đối phương vào thế khó phản bác, vừa tranh thủ được sự đồng tình rộng rãi của dư luận thế giới. Sự độc đáo trong TNĐL còn nằm ở cách Người thể hiện văn bản. 77 năm đã qua, không ai có thể quên chi tiết: Sau khi đọc xong đoạn mở đầu Tuyên ngôn, Bác bất ngờ dừng lại hỏi: “Đồng bào nghe tôi nói, rõ không?”. Câu hỏi bật ra tự nhiên từ trái tim, hết lòng trọng dân, yêu dân chứ không phải là “thủ pháp” của một nhà hùng biện đại tài. Trong dòng chảy bất tận của thời gian và sự bùng nổ thông tin hiện đại, dấu ấn của sự kiện, con người dường như trở nên rất mong manh. Vì thế, sức sống trường tồn của bản TNĐL rất đặc biệt. Tiến sĩ Modagat Ahmed, nguyên Giám đốc UNESCO châu Á - Thái Bình Dương đã nhận định: “Có ít nhân vật trong lịch sử trở thành huyền thoại ngay khi còn sống, và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó”.

Có thể nói, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã kế thừa, phát triển giá trị bền vững, phổ quát nhất của hai bản Tuyên ngôn Mỹ và Pháp. Tuyên ngôn Độc lập, không chỉ là tuyên bố độc lập - khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với mục tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, mà còn đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, vì hạnh phúc nhân loại. Tuyên ngôn Độc lập - niềm tự hào của Việt Nam!/.

Tự hào Việt Nam