Bên chân ché rượu cần

TAP CHÍ LANGBIAN|6/24/2021 2:53:18 PM

Bài dự thi” Lâm Đồng đổi mới và phát triển”

Bên chân ché rượu cần

                           NINH THẾ HÙNG

Nắng cuối xuân trải dài trên những ngọn đồi bát úp nhấp nhô bên dòng sông Đạ Huoai, xa xa đỉnh núi L Mu như chiếc Linga khổng lồ ẩn hiện giữa giải mây chiều lãng đãng, đang nhè nhẹ trôi trên khoảng trời xanh ngát. Trong căn nhà gỗ nhỏ ẩn dưới bóng bụi tre Rơla, một loại tre thân rất to của núi rừng vùng Mạ, ông K’Bròi Dam Brê khui ché rượu cần cổ thấp (ché yang) tiếp tôi trong tình thân của những người anh em lâu ngày mới gặp, ông gọi anh con trai nối dòng ra cùng ngồi, để giúp tiếp nước vào ché rượu cần mỗi khi một trong hai người chúng tôi hút rượu xuống dưới mức đánh dấu trên đoạn tre cắm giữa miệng ché rượu.

Ông bảo:

- Như thế mới đúng cách mời rượu cần của ông bà mình ngày trước, vả lại, phải để cho K’Breh nó học được những điều hay, khi ngồi tiếp rượu và nghe cha chú nói chuyện, chả vậy mà ca dao Mạ có bài rằng:       

Kờñ tồr ơm iăt tơ jơng yang/ Kờñ lơh tùng lơh kwăng ơm tơ jơng yès/ Mùs mơ pès ơm bơh ngkời ting nir/ Kờñ drah geh tir yòm ùr ơm tơ kiơng bơ nhă.

Tôi cười, mạn phép ông chuyển bài ca dao Mạ sang tiếng Kinh rằng:

Muốn hiểu biết thì ngồi nghe dưới chân ché yang/  Muốn làm quan quyền thì ngồi dựa vách/ Chặt với phát thì từ dưới thấp đi lên/ Muốn tán tỉnh người yêu phải ngồi gần bếp lửa.                

Và ông K’Bròi giải thích:

- Khi tiếp khách, khách và chủ ngồi nói chuyện bên ché rượu cần, người tiếp nước thêm  vào ché rượu, gọi là người ngồi dưới chân ché, người này nghe hết những câu chuyện trong cuộc rượu, từ đó học được nhiều điều hay, biết được nhiều điều khôn, học được nhiều kinh nghiệm của người đi trước, nên người Mạ mới nói: Hiểu biết bởi tai mà có,chữ hiểu biết (tồr) cũng đồng nghĩa với chữ cái tai (tồr). Ngày trước, chỉ có những người con sẽ thành già làng (cau kwăng), mới được cho ngồi chân ché mà học hỏi.

Người già làng “chính hiệu”

Tôi quen biết rồi thân tình với K’Bròi từ bốn chục năm trước, khi cả hai chúng tôi cùng dạy học trong một buôn người Mạ  ở vùng ven sông Đồng Nai, lúc đó núi rừng còn hoang vu, chưa có làng mạc như bây giờ, cả một vùng rộng lớn giữa đại ngàn Nam Trường Sơn, chỉ có vài buôn làng người Mạ lẩn khuất dưới tán rừng già nguyên sinh.

Chúng tôi đi vào các nhà sàn dài, nói với các ông trưởng tộc cho con cháu mình đi học để “biết cái chữ”, thầy giáo K’Bròi luôn thành công trong việc đưa trẻ nhỏ ra lớp nhờ biết dùng những bài “Ndrĭ Nring”, mà tôi gọi là ca dao, để thuyết phục mọi người. Tôi cũng thích những bài ca dao đó, một phần vì chúng mang âm sắc miền núi, một phần vì dùng rất hiệu quả trong việc thuyết phục người Mạ bản địa. Từ thởi gian đó, tôi mày mò ghi lại các câu ca dao ở các buôn làng người Mạ mỗi khi có dịp, đó là những dịp được ngồi dưới chân ché rượu cần.

 Rồi chúng tôi thân nhau, dù ông K’Bròi lớn hơn tôi gần hai chục tuổi. Mãi sau này, khi thấy ông đọc thuộc lòng gia phả của dòng họ, tôi mới biết, ông là con nối dòng của già làng buôn Puor, một buôn người Mạ Tờm ở ngã ba sông Đồng Nai và sông Đạ Huoai, là người duy nhất trong vùng Mạ thời đó đậu tú tài toàn phần. Theo như ông kể thì ngày trước, để thành già làng (cau kwăng) phải có xuất thân từ một dòng lớn, có gia phả không đứt đoạn từ thời nguyên sơ đến ngày nay, phải biết luật tục để mà phân xử, hòa giải và giải quyết các công việc trong làng buôn. Cho đến ngày nay, khi đã quá tuổi thất thập, khi đã về hưu gần hai chục năm, ông K’Bròi vẫn là già làng trên thực tế của bốn họ trong buôn Puor, dù trong buôn đã có trưởng thôn cũng là con cháu ông, được mọi người bầu ra để giải quyết các việc liên quan đến hành chính, còn những việc trong nội bộ của dân trong buôn, ông vẫn là người có tiếng nói quyết định.

Nỗi lo mai mộtvăn chương truyền khẩu của người Mạ

Trong một chuyến đi vào buôn Krềng, cũng thuộc huyện Đạ Huoai, để dự một đám cưới còn thực hiện nghi lễ theo tập quán của người Mạ, tôi hỏi ông K’Bròi:

- Trong vùng Mạ, có còn nhiều người biết luật tục của người Mạ như ông không?

Ông cười, nét cười nhẹ mà đượm buồn, sau một chút đắn đo, ông nói:

- Bây giờ trong vùng Mạ chắc chắn số người thuộc luật tục không nhiều, có thể dùng  để phân xử, hòa giải chắc chỉ không đến chục người, mà số người này cũng sẽ ít dần vì đều lớn tuổi. Ngày nay thanh niên chẳng mấy người thuộc ca dao, chứ đừng nói đến luật tục, vì luật tục cũng là một phần của ca dao. Ông cho biết:

- Ca dao của người Mạ là một kho tàng kiến thức của cả tộc người, tập hợp này có lẽ rất lớn. Ban đầu, các bài văn vần được các già làng, các tộc trưởng sáng tạo ra để qua đó điều hành làng buôn, điều hành gia tộc và qui định cách ứng xử của các thành viên trong làng buôn, lâu dần, những bài văn vần luật tục đó  được phổ biến rộng ra, thành những kiến thức liên quan đến đời sống và nhiều người thuộc hơn, trở thành các câu nói ví, mà mình gọi là ca dao. Ngày trước, trong mỗi làng, cũng chỉ có một vài người thuộc nhiều và áp dụng được ca dao vào các trường hợp xảy ra trong cuộc sống cộng đồng, họ thường là các tộc trưởng, già làng, thày cúng… là những người thuộc tầng lớp trên của xã hội Mạ. Đây chính là những túi khôn của làng buôn, họ kế thừa các kiến thức của tộc người, duy trì trong khoảng đời của họ, đồng thời tích lũy thêm những hiểu biết, biến nó thành một bài văn vần và truyền lại tất cả cho những người cùng thời và thế hệ sau.

Ông còn kể rằng:

Người Mạ ngày xưa vốn không có chữ viết, nên tất cả các hiểu biết về con người và thế giới chung quanh cũng như những kinh nghiệm sống,gia phả,  các luật tục… đều được truyền từ đời này sang đời khác bằng lời nói. Tập quán xưa của người Mạ là cả họ cùng sống trong một nhà sàn dài, “ dài như tiếng chiêng ngân”. Mỗi tối, quây quần bên bếp lửa của gian nhà chính, nơi ở của ông trưởng tộc và để bàn thờ của cả họ, thanh niên  được những người cao niên, nhiều hiểu biết truyền lại kiến thức qua các bài chuyện cổ (Yal Yau), hái đối (Lah Long), hát giao duyên (Đơs Long), ca dao (Ndrĭ Nring)…, tất cả đều được kể theo lối văn có vần, có lẽ như thế mới dễ nhớ, từ đó hình thành một nền văn chương truyền khẩu, lưu truyền lại từ  xa xưa.

Nhưng bây giờ,  không gian văn hóa, vốn có từ đời sống gắn với rừng, với núi không còn nữa, những tập tục gắn với không gian văn hóa rừng cũng mai một theo, nên luật tục nói riêng và ca dao Mạ nói chung dần dần bị quên lãng.

Thanh niên không mấy người biết những ca dao, luật tục cổ xưa nữa, thay vào đó là những yếu tố văn hóa hiện đại.   

Rồi ông K’Bròi chợt bảo:

- Mà cũng nên nhớ là ca dao Mạ không phải là những bài thơ lục bát như  ca dao của người Kinh đâu nhé. Ca dao Mạ cũng hát được, nhưng số chữ  nhiều ít không cố định trong các câu; thực ra ca dao Mạ chỉ là những bài văn vần, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ lưu truyền mà thôi; vì ngày xưa người Mạ có chữ viết đâu.

Để lưu giữ văn chương truyền khẩu Mạ

Sau khi chứng kiến cách dùng ca dao để thực hiện các thủ tục, nghi lễ trong đám cưới, được nghe, được xem những người đại diện của hai họ đối đáp với nhau bằng các bài văn vần, họ nói mà như hát; kỳ thực họ đã hát với dáng vẻ rất trịnh trọng các bài ca dao liên quan đến các tình huống xảy ra trong đám cưới. Tôi ghi lại được hơn hai chục bài ca dao  theo thứ tự trước sau, mà những người đại diện của họ nhà trai và họ nhà gái hát đối đáp để mở đầu cho từng công việc trong nghi lễ đám cưới, tôi chợt nghĩ phải làm sao lưu giữ được những phần tốt đẹp, minh triết trong văn chương truyền khẩu của người Mạ. Đem việc này nói chuyện với nhà văn Trần Ngọc Trác, nguyên Chủ tịch hội Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng thì được ông cho biết:

- Việc sưu tầm các chuyện cổ, các bài cúng, các bài ca cổ, hát đố, hát đối, truyền thuyết... của người Mạ trước đây cũng có một vài nhà dân tộc học, nhà văn đã làm, nhưng mới chỉ được một phần, so với kho tàng văn học dân gian truyền khẩu của người Mạ. Sử thi “Kông -Jai”, một bài ca thần thoại dài của người Mạ, đang trên đường mai một, chỉ còn rất ít người thuộc và không biết có còn ai thuộc cả bài hay không , hình như chưa có ai sưu tầm và công bố sử thi này. Việc ghi lại những phong tục, tập quán, các luật tục, các điều kiêng cữ, các món ăn đặc hữu, các bài thuốc từ cây rừng cũng là những việc nên làm, nếu không, kho tàng kiến thức mà người Mạ đã tích lũy hàng ngàn năm mai một mất, nếu thế thì tiếc vô cùng.

Ông K’Hành, một trí thức người Kơyòn, đi kháng chiến tại vùng Mạ và định cư lại tại buôn B’Dơr xã Lộc An, huyện Bảo Lâm thì cho rằng:

- Muốn bảo tồn  các giá trị văn hóa của người Mạ cần phải để những di sản này tồn tại trong đời sống cộng đồng, phải duy trì được một phần cách sống gắn với rừng, vừa để tạo không gian cho văn hóa cồng chiêng, vừa để lưu giữ những giá trị văn hóa rừng. Đồng thời nghiên cứu, xác định các giá trị tiến bộ của luật tục đưa vào trong hương ước và gắn với  công tác xây dựng đời sống văn hóa ở các thôn buôn  người Mạ, đây cũng là cách khuyến khích những người hiểu biết về văn hóa trong  cộng đồng Mạ trao truyền cho thế hệ trẻ tiếp thu một phần di sản văn hóa dân tộc mình.

VĨ THANH

Nhiều lần khi đi điền dã tại các buôn làng của người Mạ, trong màn sương đêm mỗi lúc một dày, ngồi trong ánh lửa bập bùng của đống củi, bên ché rượu cần cùng những cụ già người Mạ, ghi lại các bài chuyện cổ (Yal Yau), ca dao (Ndrĭ Nring) mà họ kể, nhìn ánh lửa chiếu hắt lên những khuôn mặt nhăn nheo, với ánh mắt lóng lánh mà bình yên, thấy được vẻ minh triết  toát lên từ con người họ, tôi tự nhủ, những  người con của núi rừng này còn lưu giữ những thành tựu văn hóa của tộc người Mạ được đến bao giờ, khi mà lớp người trẻ lại đang sống trong một môi trường văn hóa không giống với môi trường văn hóa của cha ông họ và tôi tự nói với mình rằng, phải cố gắng ghi chép lại những gì mà họ kể, những gì mà mình hỏi được vì lớp bụi thời gian đã và sẽ chẳng đợi ai cả./.

                                                                                    

 

 

 

Bên chân ché rượu cần