Chiều kích Tây Nguyên

TAP CHÍ LANGBIAN|1/30/2023 4:05:19 PM

Chiều kích Tây Nguyên

UÔNG THÁI BIỂU

 

Chiều cuối năm, vùng biên giới Bờ Y mưa như trút nước. Núi rừng sẫm một màu ướt sũng và cái lạnh tê tái, cơn gió lạnh nơi này cũng có gì đó khang khác như sắc màu riêng của miền biên ải. Lựa từng bước chân theo những bậc cấp bám đầy rêu trơn, tôi leo lên đỉnh núi, nơi đặt cột mốc phân định chủ quyền biên giới ba quốc gia anh em, điểm mốc mà chúng ta quen gọi là Ngã ba Đông Dương...         

1. Nơi đây, cột mốc biên cương ba nước trên điểm cao 1.086 mét so với mực nước biển, góc phương vị phóng chiếu hơn hai cây số ở ba quốc gia chỉ hiện hữu những núi non trùng điệp. Bên này, phía nước mình thuộc địa giới xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum; phía nước bạn Lào là tỉnh Attapư và phía nước bạn Campuchia là tỉnh Ratanakiri. Khó có nơi nào như ở nơi này, chỉ xoay người một vòng quanh trụ đá là đã bước qua quốc thổ ba nước. Cỏ cây mỗi nước dù cách nhau không xa mà như cũng ngả màu lịch sử, văn hóa khác biệt. Đứng ở cột mốc trong biên cương chiều mưa mịt mù, chợt nhớ người ta từng nói, ở nơi này một tiếng gà gáy ba nước đều nghe. Ấy là nói vậy để thỏa mãn trí tưởng tượng về vị trí thiêng liêng mà gần gũi, thể hiện tình cảm gắn bó keo sơn của ba dân tộc anh em láng giềng, chứ giờ này tìm đâu cho ra một con gà để gáy, mà cũng không thấy được phum, sóc, buôn, bản gần đến mức nghe chung một tiếng gà. Nhưng có lẽ, tiếng gà trong tưởng tượng dù không cất tiếng gáy hiện thực vẫn vọng âm xao xuyến lòng người trước một dải biên cương.

Dù được coi là một bình nguyên trên cao, nhưng nhắc đến Tây Nguyên là nghĩ tới những đỉnh núi huyền thoại ở xứ sở thượng ngàn. Nơi tôi đang đứng trong chiều mưa này, không phải là một ngọn núi cao có tiếng mà chỉ là một đỉnh đồi có độ cao vừa phải nhưng đây là một góc thiêng liêng. Từ cột mốc biên cương, nơi ghi dấu liệt oanh từ những cuộc chiến tranh vệ quốc, từ những gian nan suốt hành trình mở cõi, những hình dung, tưởng tượng về chiều kích và vóc dáng Tây Nguyên, hình hài Tổ quốc như được người du hành nắm bắt dễ dàng hơn. Ở nơi này, dòng mạch ba chiều thời gian cũng hiện hữu rõ ràng: Một quá khứ oai hùng, một đương đại rộng mở, một tương lai hứa hẹn sự phồn vinh. Trên đỉnh núi, màn mưa càng dày thêm, mưa núi lan tỏa khói sóng giữa mênh mang đại ngàn. Không gian ẩn hiện trong tầm mắt xa xăm, phía này thì núi mình mà hai phía kia đã là rừng bạn. Cảnh sắc như càng tăng thêm nỗi tịch liêu chất chứa dòng hoài ức giữa một vùng sơn khê trùng điệp. Từ Ngã ba Đông Dương, tôi phóng tầm mắt theo hướng mặt trời ngược về Tây Nguyên. Trong dòng cảm thức ấy, như hiển hiện một miền suy tưởng miên man về xứ sở của mình; một vùng đất Tổ quốc vừa bí ẩn, ảo huyền vừa thân thương, gần gũi…

Núi non, sông suối Tây Nguyên là sản phẩm triệu năm của tạo hóa. Trong quan niệm của đồng bào, ngọn núi nơi nào càng cao, dòng sông nơi nào càng sâu và lắm thác nhiều ghềnh thì thần linh nơi đó càng nhiệm màu, huyền bí. Cư dân bản địa hành xử theo tiếng vọng của sông của núi; hồn núi non, sông suối cũng hòa vào huyết quản của cư dân miền thượng và tạo nên những hệ minh triết. Những đỉnh núi cao, những dòng sông sâu mang vinh quang và bi kịch thánh thần; là không gian của tín ngưỡng, của những chuyện tình lãng mạn. Núi sông Tây Nguyên không chỉ tồn tại như những chỉ dấu địa lý, mà là một phần hồn cốt thiêng liêng của đất nước này. Ba dãy đại sơn Chư Yăng Sin, Bidoup và Ngok Linh sừng sững như ba nóc nhà choãi chân từ ba góc đại ngàn hùng vĩ, tạo nên một thế đứng vững chãi, biểu tượng của tinh thần kiên trung và kiêu hãnh. Những con sông lớn như Krông Nô, Krông Ana, Rêrêpốk, Đắk Bla, Sê San, Đồng Nai bắt nguồn từ những dãy núi cao, len lỏi qua những cánh rừng, những buôn làng như những dải hoa văn đa sắc, chở trên mình những trầm tích, những giá trị lịch sử, văn hóa. Từ hoang liêu sơn dã, từ những làng buôn tựa lưng vào núi, ngửa mặt ra sông mà trường ca Đam San, Xing Nhã, Khinh Dú, Dyông Dư, Đăm Noi… ra đời. Từ đá núi, tre rừng mà những nhạc cụ như Lúrgòong, Tingning, Klôngpút, T’rưng… đã cất lên thanh âm huyền diệu. Những câu ca dao Nrí, Nrìng; những khúc dân ca ayray, kưứt, lảhlông, yal yau; những nhịp điệu dân vũ đặc trưng cũng hòa quyện hồn người bên bếp lửa trong những đêm trường đại ngàn, tạo nên một không gian ảo huyền, như thực như mơ…

2.Bao tháng năm ngang dọc vùng đất đại ngàn, tôi luôn tự hỏi, chiều kích Tây Nguyên được định vị, đo lường bằng những tượng hình gì cụ thể? Đo bằng núi cao, sông sâu, bằng những cánh rừng huyền bí, những thảo nguyên mênh mông, những giá trị văn hóa thẳm sâu hay trầm tích hàng triệu năm kiến tạo nên vùng đất bazan? Qủa thật, khó để định lượng bằng hình ảnh hiện hữu. Những ngọn núi cao hay thấp, những dòng sông lớn hay nhỏ đều có chung một mạch nguồn từ đâu đó thượng nguồn. Những buôn làng từ triền núi phía bắc đến dòng sông phía Nam mà tôi từng qua hầu như có chung một cội rễ anh em. Tôi gặp ở làng Stơr của Anh hùng Núp, làng Saluk mà G.Condominas tìm ra đàn đá và viết bộ khảo cứu nổi tiếng “Chúng tôi ăn rừng”, vùng Bờxaluxiêng của tộc người Stiêng kiên trung, buôn Kotam nơi người Ê Đê tôn thờ giọt nước đầu nguồn hay xứ sở của người Brâu bên cửa khẩu Bờ Y… đều có chung sắc thái giản dị, thân thương giống nhau. Những buôn làng tôi qua đều có những ngọn núi cánh rừng chở che, những dòng sông đắp bồi sự sống và con người hòa điệu vào thế núi dáng sông mà tạo nên hệ giá trị văn hóa ngàn đời. Những tộc người ngàn năm trên miền thượng du này dù rất ít người như Brâu, Rơ Măm hay đông dân như Ê Đê, Ba Na, K’Ho thì cũng chung dòng ngôn ngữ, chung không gian cư trú, chung nhịp điệu cộng đồng, chung bếp lửa ấm tình cao nguyên…       

Tây Nguyên, mãi mãi là một miền mơ tưởng. Bên chân dãy Trường Sơn hùng vĩ, những tộc người anh em đã dựng nên lịch sử của vùng đất kiêu hãnh. Đó là dòng ký ức chói sáng qua hàng nghìn năm kiến tạo, xây đắp quê hương từ khí chất oai hùng, bất khuất như tinh thần Đam San huyền thoại. Đó là sự bền gan, vững chí như núi, như nước, như sâu thẳm đại ngàn trong những cuộc trường chinh vệ quốc. Từ trong hoang sơ, từ trong máu lửa, người Tây Nguyên bao đời nay chống chọi với muôn vàn gian nan, muôn vàn kẻ thù nhưng họ đã vượt lên, đã chiến thắng và xác lập trường tồn vị trí chủ nhân của vùng đất đại ngàn.

Tây Nguyên, một vùng lãnh thổ đặc thù của Việt Nam, không gian sinh tồn lâu đời của cộng đồng những tộc người nói hai ngữ hệ Môn-Khmer và Malayo-Polynêsia, nằm ở trung tâm bán đảo Đông Dương. Suốt từ thời tiền sử đến thời cận đại, vùng đất sau này gọi là Tây Nguyên đã liên tục trải qua những chặng đường biến động nội vùng và những dịch chuyển quan trọng trong quá trình giao lưu, tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Năm 1470, vua Đại Việt là Lê Thánh Tông gọi lãnh thổ thuộc phạm vi ảnh hưởng của Pơtao Apui (vua Lửa), Pơtao Ia (vua Nước) là xứ Nam Bàn và coi đây như một “thuộc quốc”. Đến thời nhà Nguyễn thì mối quan hệ giữa các thủ lĩnh Tây Nguyên với Nhà nước phong kiến Việt Nam trở nên thường xuyên hơn. Nhà Nguyễn nhận sự triều cống của vua Nước, Vua Lửa và đã cử một số viên quan đi tuần trú miền núi rừng phía Tây này. “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, “Đại Nam liệt truyện” của Quốc sử quán triều Nguyễn và một số cổ thư khác từng ghi nhận nhiều sử liệu, chuyện kể về mối quan hệ này…

Trước năm 1945, các giáo sĩ và học giả phương Tây khi tiếp xúc với vùng đất lạ lẫm này từng đặt tên gọi là “Kẻ Mọi”, “Rú Mọi” hay “Xứ Mọi”. Trong một số tài liệu của các thời kỳ trước, miền Thượng du phía Tây còn được gọi bằng những tên như “Cao nguyên miền Thượng”, “Cao nguyên Trung phần” hay “Cao nguyên Nam Trung Bộ”. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Triết, địa danh được gọi tên “Tây Nguyên” ngày nay xuất phát từ cách gọi vắn tắt của một tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Liên khu V (thuộc Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ, ra đời năm 1946) là “Ban vận động đồng bào thiểu số cao nguyên miền Tây Nam Trung Bộ”. Nhiều nhà nghiên cứu chiến lược cho rằng: Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ Việt Nam và Đông Dương. Chúng ta nhắc lại mệnh đề này để khắc họa sâu sắc về vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự của địa bàn Tây Nguyên. Có lẽ vậy mà sau khi thôn tính Nam Bộ năm 1867 thì năm 1883, thực dân Pháp đã tiến lên Tây Nguyên, thiết lập ách cai trị và tổ chức khai thác vùng đất giàu có tiềm năng này. Có lẽ vậy mà chính quyền Việt Nam Cộng hòa dưới sự cố vấn của Hoa Kỳ đã xây dựng Tây Nguyên trở thành một trong những khu vực quân sự quan trọng nhất miền Nam. Xác định vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng của địa bàn này, Đảng ta đã quyết định mở màn cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bằng Chiến dịch Tây Nguyên lịch sử…

3. Mỗi khi tự vấn lòng mình với câu hỏi đã hiểu gì về Tây Nguyên hay chưa, tôi lại nghĩ về cuộc đời của nhà dân tộc học người Pháp nổi tiếng Jacques Dournes, người đã nói “nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu” khi ông trầm mình gần cả cuộc đời cùng văn hóa Tây Nguyên.

J.Dournes một lần đến Tây Nguyên sống gần mười năm với vai trò là nhà truyền giáo nhưng mê khảo cứu văn hóa mà “xao lãng mục vụ” nên bị triệu hồi về Pháp năm 1954. Lần thứ hai ông trở lại và ở hơn mười năm nữa nhưng đã là một nhà dân tộc học đúng nghĩa cho đến khi bị buộc phải rời Việt Nam vào năm 1970. J.Dournes đã sống trọn vẹn một phần tư thế kỷ của cuộc đời mình với người K’Ho Sré bên hồ Ka La xứ Djiring và người Jrai vùng hạ nguồn sông Ba. Được cử đến Tây Nguyên với trọng trách là một nhà truyền giáo, nhưng văn hóa Tây Nguyên, ngôn ngữ Tây Nguyên và những câu chuyện huyền ảo trong tâm hồn người dân Tây Nguyên đã chinh phục ngược ông. Nhà truyền giáo đã cải đạo của mình để theo tín ngưỡng của người thiểu số, buông giáo lý mà lần tìm những mạch ngầm văn hóa bản địa. Từ ruộng rẫy và bếp lửa khét sàn giữa mênh mông đại ngàn, J.Dournes đã tạo nên những công trình khảo cứu tầm cỡ, những tác phẩm làm nền cho những ai tìm kiếm dân tộc học Tây Nguyên. Trong số khoảng 250 công trình đã xuất bản của ông, những “Rừng, đàn bà, điên loạn”; “Pơtao: Một lý thuyết về quyền lực ở người Jrai Đông Dương” hay “Miền đất huyền ảo” là những mẫu mực về khảo cứu mà nhà nhân học này đã để lại trong quá trình chinh phục Tây Nguyên hay nói đúng hơn là chính Tây Nguyên đã chinh phục ông. Dournes là một người “yêu để rồi hiểu” Tây Nguyên. Cuộc đời ông, trí não và tâm hồn ông thuộc về miền mơ tưởng Tây Nguyên. Nhắc lại câu chuyện về J.Dournes để hiểu thêm rằng, Tây Nguyên là vùng đất có sức hút vô cùng kỳ lạ.

Không dám so với J.Dournes, “một người Jrai hơn bất cứ người Jrai nào”, tôi chỉ là một người bình thường có cơ hội “đi qua miền mơ tưởng Tây Nguyên” mà đã thấy yêu mảnh đất này, và cứ tưởng đã yêu là hiểu, nhưng mà không phải vậy. Cho đến một đêm trong ngôi nhà dài giữa rừng Lộc Bắc, khi già làng K’Diệp của buôn làng người Mạ kéo tôi lại bếp lửa, bôi những giọt máu gà vừa cắt tiếc tanh tưởi lên trán tôi và khấn Yàng cho buôn làng nhận đứa trai người Kinh làm con, tôi mới vỡ lẽ ra rằng, bản thân mình chưa hiểu chút gì về Tây Nguyên cả. Được nhận làm con của đại ngàn là một niềm vinh hạnh, nhưng tất cả lại như mới bắt đầu, từ “a,b,c…” cho một tình yêu!...

***

Chiều kích Tây Nguyên sẽ được đo bằng tượng hình gì? Lại trở về với chiều mưa ở góc rừng giáp ba biên giới. Ngồi trò chuyện cùng tôi trong chốt tiền tiêu là đại úy A Hùng, người con của dân tộc Giẻ Triêng (Kon Tum) và binh nhất Vi Văn Nghiêu người dân tộc Mường từ quê hương Thanh Hóa. Mới hiểu ra rằng, chiều kích Tây Nguyên lúc này được đo bằng tình yêu đất nước của người lính biên phòng khi chúng tôi cùng nói về sứ mệnh thiêng liêng của những người giữ đất và ký ức con thuyền độc mộc đưa đoàn quân ra trận ngày xưa của Anh hùng A Sanh hiển hiện trên dòng Pô Cô lững lờ trôi trước mặt. Cũng chiều nay, tôi ngồi với nữ già làng Y Pan hơn chín mươi mùa rẫy, nữ già làng của tộc người Brâu ở bản Đắk Mế. Già Y Pan kể cho tôi nghe về tộc người bà, câu chuyện sinh tồn và văn hóa của một tộc người chỉ có 322 nhân khẩu, ít hơn cả số lượng những chiếc lá trên một cây rừng. Tôi chợt nhận ra rằng, chiều kích Tây Nguyên là những gì cụ thể, giản dị nhưng thiêng liêng nhất. Là cột mốc biên cương, là dáng cổ thụ bên rừng, là hòn đá cheo leo trên nền núi quốc thổ; là những con người từng ngày bền bỉ giữ gìn văn hóa tộc người và những người lính hiên ngang làm những cột mốc sống bảo vệ từng tấc đất quê hương…

Tôi cũng hiểu ra rằng, miền mơ tưởng Tây Nguyên, xa thật là xa như hàng triệu năm kiến tạo núi cao, sông sâu, dựng nên những bộ sử thi kỳ vĩ kể về quá khứ oai hùng xứ sở. Nhưng miền mơ tưởng Tây Nguyên cũng thật gần gũi và thân thuộc như những con người mà tôi vẫn gặp trên miền đại ngàn này mỗi ngày thường như thế./.

Chiều kích Tây Nguyên