Người xa xứ ở B’Lao

TAP CHÍ LANGBIAN|2/16/2022 10:53:56 AM

                                      Người xa xứ ở B’Lao

                                                                                                  Ký s: TRẦN ĐẠI

 

BLao trước đại dịch covid có nhiều bàn trà trước hiên của những người cao tuổi. Vào những buổi sáng đầy sương mù ấy các cụ ngồi tán chuyện đất trời. Cũng tại đây, nhiều câu chuyện được người ta thi nhau đặt lên bàn để bình luận. Đằng sau câu chuyện một thời hoa lửa là dân nghèo xa xứ với những mảnh đời trôi theo cơm áo trôi dạt vào xứ B’Lao. Nơi đây, họ đã tự quên đi đời mình để âm thầm xây dựng một thế hệ mới năng động bằng nội lực từ hai bàn tay và trí tuệ.

Tâm thức của một gia tộc

Mấy năm trước tôi tình cờ quen với ông Nghiêm Truật trên 60 tuổi tại bàn trà của nhà thơ Hà Bình Minh (Hội VHNT Lâm Đồng). Ông Truật có vóc người khẳng khiu, bước đi xiêu vẹo, nhưng bù lại ông sở hữu một trí nhớ tinh tường. Trong vài lần tiếp chuyện, tôi phát hiện mỗi khi muốn nói điều gì ông thường mấp môi vài lần mới phát âm được. Điều tôi trân trọng là kỹ năng nghe của ông thật tuyệt vời, ông luôn chú ý cả chiều dài câu chuyện của người khác, chưa bao giờ thấy ông phản ứng khi gặp quan điểm trái chiều, cũng không tỏ ra thái độ để làm cho người đối thoại thất vọng.

những điểm gặp nhau tại xứ trà heo hút này, nếu ai chú ý bạn trà ngồi quanh ta sẽ nhận ra nhiều âm sắc vùng miền. B’Lao là cao nguyên xanh thưa người, vì vậy sau ngày hòa bình nhiều bà con từ các nơi đến lập nghiệp, dần dần lập ra các hội đồng hương để gặp nhau nhớ về quê cũ. Nhưng đối với ông Truật dường như không mặn mòi lắm. Những lúc rảnh rỗi ông dành thời gian cho con cái, hoặc ngồi trước hiên nhà uống trà một mình đắm chìm trong quá khứ. Có thể đây là con người mà thời xa vắng đã gặp nhiều bất hạnh, nên tôi chủ động tìm đến nhà sau khi hẹn ông qua điện thoại.

Đứng trước ngôi nhà sang trọng ở đường Tây Sơn, tôi vẫn không nghĩ là nhà riêng của ông Truật. Đó là một biệt thự vườn tĩnh lặng cổ kính rợp bóng cây xanh, trước nhà có chiếc xe con nép mình dưới tàn cây sung quả tím. Ông chủ họ Nghiêm ra tận cổng đón tôi một cách thân tình như hai người lính cũ đã từng sống chết có nhau. Tôi không biết nhà ông nhiều người đến hay không, nhưng có 2 phòng khách, một phòng cho gia đình, một phòng rất sang trọng dành cho khách VIP. Trên tường màu cam ở phòng VIP, có khá nhiều hình ảnh các con ông đang mặc áo thụng trong các lễ tốt nghiệp đại học, xung quanh là các tấm huy chương quốc gia, quốc tế được lồng kính cẩn thận. Nhìn các hình ảnh này, tôi bỗng nhớ đến câu nói của nhà xã hội học Sofocies: “Trong một gia đình, con cái tự hào về danh dự của cha mẹ và cha mẹ vui mừng sự thành đạt của con cái”. Ông Truật pha ấm trà Thái Nguyên một cách điệu nghệ, chứng tỏ ông là mẫu người uống trà bằng tâm thức.

Được hỏi về sự thành công của gia đình và con cái, ông mấp mấy môi vài lần, chia sẻ với tôi bằng âm sắc buồn buồn: “Tôi định cư Bảo Lộc gần 40 năm, nhưng quê gốc ở Đức Thọ, Hà Tĩnh. Sinh ra và lớn lên không được may mắn như những người khác. Năm 1967 cả nhà tôi bị một quả bom Mỹ san bằng, nhưng trong bất hạnh vẫn còn người sống sót. Lúc ấy các anh lớn của tôi đang ở chiến trường, tôi và đứa em gái ở ngoài ruộng. Khi nghe tin dữ hai anh em tôi chạy bộ về, căn nhà tổ ấm của gia đình tôi chỉ còn là hố bom sâu hoắm, xác bố mẹ không còn được hình hài. Hai anh em tôi mang mẹt đi nhặt những mẫu thịt xương của cha mẹ trong tiếng kêu khóc xé lòng…”. Ông Truật cúi gầm xuống như muốn che giấu sự bất hạnh khốn cùng của một đời người. “Vài năm sau hai anh em tôi bỏ quê dắt díu nhau ra Hà Nội tìm người anh ruột để nương tựa. Tuy anh mình là cán bộ quân đội ở thủ đô, nhưng thời tem phiếu lại nuôi cả cha mẹ già bên vợ cộng với hai miệng ăn của anh em tôi, cuộc sống càng thêm khốn khó. Có lần tôi tận mắt thấy anh tôi ra chợ bán từng bộ quần áo đại cán, tôi biết chúng tôi đã trở thành gánh nặng cho anh. Trong thời gian đói quay quắt ấy, em gái tôi đi làm người giúp việc, còn tôi xin đi bộ đội...”

Năm 1977 tôi ra lính về học lại phổ thông rồi chuyển sang nghề sắp chữ in ấn, nhưng không theo nghề, cuối cùng làm cái gì cũng “truật” như cái tên của tôi. Năm 1980 tôi vào Lâm Đồng làm việc cho công ty chè, cũng nhờ khả năng đọc, viết và đánh máy giỏi nên được tiếp cận nhiều thông tin về cây chè và cà phê do người Pháp để lại. Anh biết thời bao cấp làm việc ở cơ quan lương ít ỏi, nên tôi xin nghỉ việc về trồng rau muống kiếm ăn và tận dụng mọi thời gian đêm ngày cuốc hố trồng cà phê mít theo quy trình rút ngắn thời gian thu hoạch theo tài liệu của người Pháp. Vào năm 1985 giá một ký cà phê, ở Bảo Lộc tương đương 30 ký gạo, năm đầu tiên với 2 sào đất tôi thu được 75 ký cà phê năm thứ 2 được 400 ký; gia đình tôi bắt đầu chấm dứt nạn đói và có chút ít dư dả. Trải qua thời xóa đói giảm nghèo từ 2 sào cà phê, tôi nhận ra nghề làm vườn nếu diện tích như thế không thể đầu tư việc học hành cho con cái sau này, nên vợ chồng quyết định bán hết chuyển sang nghề in ấn như mình đã học trước đây. Tuy nhiên xu thế xã hội thời bấy giờ không giống như những năm trước, vì thị trường đã chuyển sang vi tính hóa. Ngày ấy ở B’Lao việc ứng dụng tin học vào công nghệ in gần như không tưởng, tôi vừa làm vừa học thâu đêm suốt sáng trên màn hình vi tính đến nỗi người bơ phờ, teo tóp chỉ còn bộ xương di động. Nhưng cũng nhờ xử dụng phần mềm thành thạo, tôi mới khám phá ra nền văn minh thế giới. Đã có lần vợ chồng tính buông xuôi, nhưng nhìn các con, chúng nó đang tuổi lớn sẽ tồn tại như thế nào. Cuộc đời tôi, tôi hiểu thế nào là sự đùm bọc bảo vệ của cha mẹ từ thuở ấu thơ, tôi không muốn nhìn thấy các con tôi sống thiếu thốn.

Gia tộc họ Nghiêm đã có truyền thống hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên mỗi lần mở gia phả tôi không đủ can đảm nhìn vào danh sách các quan đại thần của dòng họ đã góp phần làm nên trang sử Đại Việt. Bản thân tôi đã không ra gì, đã từng bị xã hội và dòng tộc xa lánh.”

Ông Truật ngã người trên chiếc ghế bành co rúm lại, đưa mắt nhìn lên ánh đèn chùm một cách vô hồn. Hình như sự va đập của thương trường, của sự đố kỵ cộng với cô đơn đói khổ một thời đã làm cho ông chai lì không còn nước mắt nhỏ xuống cuộc đời bất hạnh như ông. Ông lại mấp mấy môi tiếp tục: “Chính vì mồ côi cha mẹ từ lúc bé, nên vợ chồng tôi dồn hết tình yêu thương cho các con. Có thể nói tôi dành rất nhiều thời gian gần gũi, dạy bảo và xem hai đứa con tôi như người bạn chia sẻ thăng trầm. Thông qua những tài liệu và thông tin mạng về sự thành công đời người nhất là người Hàn và người Nhật, Chính phủ họ thông báo đến tận người dân là học xong trung học sẽ được công nhận đã hoàn thành chứng chỉ làm người và xong đại học được công nhận có được chứng chỉ làm ăn. Những năm ấy tôi đã âm thầm chuyển tải vào tâm thức chúng những mục tiêu con người, những bi kịch của thanh thiếu niên không được học hành. Phân tích từ lòng tự trọng của người Nhật sau đại bại trong chiến tranh họ đã vươn lên như thế nào, đến người Do Thái tiếp quản một vùng đất khô cằn và sa mạc ở Trung Đông đã trở thành một cường quốc mà cả thế giới phải ngã mũ cúi đầu. Nhiều lúc cha con tôi tranh luận tìm ra chân lý, tìm ra hướng đi từ một trách nhiệm ngay bản thân mình. Thực ra, mục đích chính tôi muốn các con tôi vượt ra được nền văn minh làng xã quanh quẩn ở gốc tre làng mà lầm tưởng mình là vĩ nhân. Còn vấn đề không kém quan trọng là vợ chồng phải sống gương mẫu từ lời nói đến việc làm. Mình không thể dạy đạo đức cho con cái trong khi cha mẹ suốt ngày cãi nhau, nói xấu người khác, ra đường ăn nhậu, hoặc mang tiền bất chính về nhà”.

Hiện nay gia đình ông Truật có một tài sản vô giá mà không phải gia đình nào cũng có thể mong đợi. Vợ chồng con trai đầu của ông là thạc sĩ kinh tế, vợ chồng con gái là tiến sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Pháp. Tất cả đều đi lên từ khả năng chính chủ với lao động chất xám của mình.

Xuân năm nay, tôi đến thăm nhà ông Truật, tình cờ gặp mặt đầy đủ các con cháu và dâu rể của ông. Lúc tiễn tôi về, ông Truật còn mấp môi “Trong đời người nếu mình không làm được việc này hãy cố làm công việc khác để nuôi dưỡng điều mình ước vọng biến thành hành trang vào đời. Các con tôi đều đã mua nhà ở B’Lao để sau này trở về, vì vùng đất này là nơi chúng nó sinh ra và lớn lên từ những thăng trầm và bất hạnh của bố mẹ chúng nó.”.

Người mẹ đơn thân

Tết năm rồi tôi được nhà thơ Hà Bình Minh mời đến một quán cà phê ven lộ 20 nhìn ra núi Đại Bình thuộc phường Lộc Tiến. Cùng đi với anh là một phụ nữ U70, dáng người quý phái. Chị tên là Trần thị Kim Ngân, quê gốc Quảng Nam. Dường như thời xa vắng chị Ngân từng là đại gia, nên trên người khoác lên bộ quần áo đắt tiền đã qua bóng thời gian. Trong chiều dài câu chuyện ở quán cà phê dưới chân núi tập trung về đất và người B’Lao lấy mốc từ thời Hoàng Triều Cương Thổ (Domaine de la Couronne) năm 1950… Chị Ngân yên lặng, đăm chiêu phảng phất nỗi buồn, chị ngã người dựa vào thành ghế đưa mắt nhìn về đỉnh Sa Pung mờ ảo trong chiều hoang nhợt nhạt không nói 1 lời. Tôi đoán đây là hình ảnh của một mẫu người đã bị dòng đời khắc khoải như ông bạn Nghiêm Truật của tôi.

Sau cuộc gặp gỡ ấy, tôi chủ động tìm đến nhà chị ở Số 82 đường Đinh Tiên Hoàng, Phường 1. Đứng trước cổng nhà nghe bên trong vọng ra tiếng chuông, tiếng mõ buồn buồn, như số phận thăng trầm của 1 phận người. Đó là căn nhà xây khá đẹp nằm ngay mặt phố, trong nhà mọi thứ đều mang màu đặc trưng của Phật giáo; từ nền gạch, bàn ghế đến tủ giường đều là màu nâu, trên bàn uống nước còn có hai xâu tràng hạt. Chính diện là hai bàn thờ, một thờ Phật và 1 thờ bố mẹ. Ngoài sân có vài chậu kiểng trồng hoa chiếu thủy, mùa này hoa nở trắng với mùi hương thoang thoảng như chia sẻ sự hạnh phúc ngắn ngủi của một con người. Nhìn hình ảnh một phụ nữ đơn thân đến tuổi về chiều, ngồi trầm ngâm bên nhang khói, kinh kệ với chuông mõ công phu, tôi càng xác tín đây là một người đã từng trải qua cuộc đời sóng gió.

Biết chị là dân Quảng Nam gốc, nên tôi mang chuyện mì quảng ra kể xem như phần mở đầu cuộc viếng thăm. Đến khi nhắc lại vùng quê xứ Quảng có tiếng gà trống gáy trưa, tiếng gà mái tục tục gọi con, tiếng heo, bò kêu và tiếng người gọi nhau ở bờ tre, gốc chuối… chị ôm mặt khóc. Tôi biết đã đụng chạm thời xa vắng của người con xa xứ nên chắp tay xá xá xin lỗi.  

Chị tự tay pha ly cà phê nóng cho hai người, trong lúc đang còn ầng ậng nước mắt, rồi đọc một đoạn thơ để tự khai báo lý lịch đời mình: “Em là cô gái Thăng Bình/ Ngọt ngào đất mẹ, nặng tình quê cha/ Bao năm xuôi ngược đường xa/ Nhớ chiều khói bếp, nhớ cà dầm tương/ Nhớ trăng tháng tám vấn vương/ Bên mâm mì quảng lệ thường trào ra”. Tôi hỏi vì sao lại có nước mắt trong lúc đang ăn mì quảng. Chị giải thích: “Ở quê mình, nấu cơm bằng rạ. Đến mùa mưa rạ ướt phải thổi phù phù, trong các bữa ăn gia đình, bao giờ cũng ong ong mùi khói, khói chập chờn lan tỏa. Mì quảng là món đặc sản, nhà nào cũng biết làm. Mì ở quê mình, dầu phộng thiệt béo, ớt thiệt cay, sợi mì thiệt to, nhất là phải có cái tô to để trộn rau sống. Anh nghĩ với không gian vừa khói vừa ớt cay nồng làm sao không rơi nước mắt được. Tôi xa quê nhiều năm, ăn mì quảng khắp vùng miền mới nhận ra cách ăn lua, húp không thích hợp với người Huế điệu đàng, người Hà thành kiểu cách. Vì vậy mì Quảng không bước chân qua bên kia đèo Hải Vân được, cho dù có người lưu lạc ra ngoài nớ.

Nhớ buổi sáng tháng ba năm 1968 khi đến mùa chim tu hú bắt đầu kêu, tôi từ Hội An về, cả vùng Bình Giang quê mình vắng lặng như tờ. Vào nhà thấy một mâm mì quảng có rau chuối rừng đỏ trắng đang ăn dở nhưng không thấy mẹ đâu. Tôi gọi khàn cổ mới thấy mẹ dẫn các em mò về trong dáo dác, áo quần tơi tả, mặt mày lem luốc.” Chị kể với đôi mắt buồn buồn. Lúc ấy được mẹ cho biết hai bên vừa mới đánh nhau, xác người còn nằm trong vườn chuối. Chị chặc lưỡi: “Anh thấy đấy chiến tranh không những làm cho cuộc sống nghèo đói mà còn làm cho con người tàn ác thêm. Năm sau tức 1969, tôi bỏ quê về Bảo Lộc sinh sống, tính đến nay tròn 50 năm. Năm mươi năm của một đời người xa xứ như tôi là những đêm dài lo âu mất ngủ. Ngày ấy B’Lao dân số thưa thớt, rừng nguyên sinh còn nhiều, buổi sáng sương mù có khi kéo dài đến 8 giờ lạnh buốt. Là dân tha phương không có nghề nghiệp và chữ nghĩa, việc đi đến vùng đất mới là đồng nghĩa đánh đổi cơ bắp. Sau năm 1975 lấy chồng rồi chia tay, một mình nuôi 5 đứa con trong hoàn cảnh đơn thân của thời bao cấp thật sự không dễ dàng. Trong tâm thức của mình lúc đó là cố gắng bằng mọi giá không để con thất học, không có nghề phải sống tha phương lây lất như mình. Vì thế ngày ấy việc gì mình làm từ buôn trà, buôn kén, buôn tơ đến vật liệu xây dựng, tất cả cũng chỉ vì con. Vào những năm ấy sợ nhất là cuối tháng phải lo tiền cho 5 đứa con học đại học. Nhiều lúc ngồi ăn cơm cùng với nước mắt”. Chị lại rưng rưng nước mắt.

Vào những năm đầu 2000, chị Ngân từng là một đại gia mua bán vật liệu xây dựng, rồi chủ khách sạn. Hiện nay các con của chị đều trưởng thành, có danh phận. Chúng nó là bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ hoặc giảng viên đại học và du học ở nước ngoài bằng khả năng thật sự của mình. Tôi quý trọng chị, bằng phong cách rất hồn nhiên khi lật lại trang sử đời mình, chị kể cho tôi nghe từ lúc cơ hàn khốn khó không được học hành nhiều. Có lần vào những năm đầu 70 khi đi qua trường Nông Lâm súc B’Lao nhìn thấy các nữ sinh mặc áo dài tím thướt tha cười nói, ngẫm nghĩ đến thân phận mình chị tủi thân… Trong khi thời đương đại này không ít các trọc phú hoặc các đại gia không chính danh, họ cố tình che đậy mình là người sinh ra ở gốc rạ, hoặc phủ nhận là người ở miền quê nghèo hèn.

Lúc chia tay, chị Ngân tiễn tôi ra trước cửa nhà rồi tâm sự “Mình sinh ra lớn lên ở miền quê xứ Quảng. Con chim nhớ tổ còn quay về nguồn cội nhưng con người đôi khi lại không. Hôm trước ngồi cà phê với các anh thấy đàn cò bay về núi Đại Bình lại nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trên đời ai cũng có quê hương để nhớ, tuy nhiên. B’Lao nơi tôi đã sống gần cả đời người từ năm 1969 đến nay, các con tôi cũng được sinh ra và lớn lên từ đây, tôi nhớ từng con đường góc phố còn đọng hàng tấn giọt mồ hôi và nước nước mắt của người mẹ đơn thân nuôi năm đứa con học đại học… Tôi nhớ có ai đó nói với tôi rằng: Mùa xuân của người già không phải là sống trong nhà cao cửa rộng mà chính là nhìn thấy được sự thành công của con, cháu do chính mình nuôi dạy. Anh ạ! Tôi là người làm ra sản phẩm xây dựng, nhìn một mặt hàng xuất xưởng bán được phải có mẫu mã chất lượng. Cũng giống như đời người, những ông bố bà mẹ cho các con “xuất xưởng” cũng giống như một sản phẩm xuất tung ra thương trường, có nghĩa là chúng phải được dạy dỗ về làm người và kỹ năng kiếm sống mới có cơ may tồn tại anh ạ!”/.

 

Người xa xứ ở B’Lao