Văn học Lâm Đồng - Những cảm nhận về Giải thưởng lần thứ II
TĨNH XUYÊN
Mặc dù Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng lần thứ II còn chấm vòng chung khảo, nhưng hứa hẹn sẽ là một mùa thu hoạch với nhiều thành tựu. Nhân dịp này, chúng tôi có mấy cảm nhận riêng về chuyên ngành Văn học tham gia dự Giải.
Tham gia Giải thưởng chuyên ngành Văn học lần thứ II là những tác phẩm xuất bản từ năm 2012 đến năm 2020. Ban Tổ chức Giải thưởng đã nhận được 26 tác giả, với đầy đủ các thể loại: Tiểu thuyết, truyện, kịch, thơ và ký. Tuy ranh giới không phân định một cách rạch ròi, bởi sự chồng mờ, giao thoa giữa các thể loại nhờ năng lực sáng tạo của người viết, nhưng tạm chia theo xu hướng thẩm mĩ có 3 trạng thái. Văn học giàu tính hư cấu; văn học sử liệu với nhiều hiện thực của sự kiện - lịch sử; trong đó, phản ánh đối tượng diện rộng (đời sống con người, nhịp sống xã hội) và phản ánh đối tượng diện hẹp (gia đình, bạn bè, thầy trò…); văn học bao hàm cả 2 trạng thái trên. Về theo thể loại, tiểu thuyết có 5 tác giả; truyện, truyện dài, truyện ngắn, truyện ký có 6 tác giả; ký (bao gồm các tiểu thể loại tùy bút, tản văn, hồi ký có 6 tác giả); kịch có 1 tác giả và thơ có 13 tác giả (trong đó 11 tác giả với 11 tập riêng và 2 tác giả in chung với văn xuôi). Thật trân quý, có tác giả rất cao niên, sáng tác ở tuổi 96. Về phạm vi đề tài và chủ đề phản ánh rất rộng; bao gồm không gian nhiều địa phương trong đất nước, trong đó tập trung những con người, những vùng đất trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng; thời gian kéo dài từ trước những năm “tiền khởi nghĩa” đến nay, quá khứ và hiện tại.
Ghi nhận trước hết là khá nhiều tác giả thể hiện được năng lực sáng tạo, lao động nghệ thuật nghiêm túc. Một số tác giả rất công phu trong tích lũy hiện thực cuộc sống, dày tư liệu, nhiều cứ liệu. Một số tác giả thực sự có bề dày về vốn sống và kiến thức chuyên môn về nghề nghiệp. Một số tác giả văn xuôi và thơ bộc lộ mạnh vốn kiến văn của người sáng tác. Một số tác phẩm khá đồ sộ về dung lượng, nhất là tiểu thuyết chương hồi. Một số tiểu thuyết bước đầu trở thành tác phẩm tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở giới hạn không gian và thời gian. Tác giả đã miêu tả cuộc sống hiện tại không ngừng biến đổi, tác thành trên những nền tảng của kinh nghiệm cá nhân. Nhờ vậy tác giả đã tái hiện cuộc sống như thật, không thi vị hóa, lãng mạn hóa và lý tưởng hóa. Nhân vật tiểu thuyết là con người nếm trải sâu đậm…
Ở truyện ngắn, một số tác giả đã hướng tới khắc họa những nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống con người, tạo thành một ấn tượng hoàn chỉnh. Nhân vật là mảnh nhỏ của thế giới, khắc họa như một tính cách điển hình trong tương quan với hoàn cảnh điển hình. Nhân vật là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Cốt truyện của truyện đã giúp người đọc nhận ra một lý lẽ cuộc sống, gây ấn tượng khá đậm về cuộc đời và tình người. Tác giả đã thể hiện bằng bút pháp chấm phá, chỉ chọn một khía cạnh, một sự kiện, một khoảnh khắc. Và quan trọng là ở chi tiết và hành văn ẩn ý, tạo chiều sâu để gợi mở. Qua một số truyện, tác phẩm đã thể hiện sự quan sát và trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Thành công này thể hiện rõ nhất ở lựa chọn chi tiết, hình ảnh, từ đó nâng lên thành những trải nghiệm sâu sắc…, thông qua kết cấu, tình huống, cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh và chi tiết.
Nhiều trang tiểu thuyết và truyện thành công trong miêu tả nhân vật, diễn biến tình huống cũng như dẫn dắt sự việc khá thú vị. Các tác giả đã cố chứng minh câu chuyện mình kể là chuyện thật. Khá nhiều bài thơ thể hiện sự tìm tòi trong biểu đạt, có những ý thơ mới và hay. Các tác giả ký thể hiện khá nhiều phong cách biểu hiện. Nhiều tác phẩm ký nghiêng về tính báo chí, tính chính luận nên đậm chất tư liệu, kèm theo đó là sự lý giải, đánh giá. Đặc biệt phần văn học sử liệu đã tái hiện khá nhiều những thời đoạn lịch sử trong tiến trình phát triển xã hội, trong chiến tranh và hậu chiến tranh, trong lao động sản xuất và trong tình yêu đôi lứa. Đọc các tác phẩm văn học tham gia Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng lần thứ II, có thể hiểu thành công lớn nhất là các tác giả đã gửi gắm đến người đọc hình dung được một bức tranh hiện thực Lâm Đồng, từ các giai đoạn phát triển lịch sử đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trong đó, nhiều con người đã bước vào trang văn bằng hình tượng nghệ thuật. Một số trang văn bước đầu miêu tả được những phong tục, tính cách xã hội, tính cách dân tộc trong cuộc sống của cư dân các vùng miền qua các thời đại. Đáng mừng là đã có những tác phẩm mang được âm hưởng trữ tình và triết lý.
Về thơ, cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống. Người làm thơ cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tế vi nhất. Thi nhân tự đốt cháy tâm hồn để khơi sáng và tỏa ấm. Một số bài thơ đã thực sự là kết tinh “hồn thơ”, nhờ quá trình sáng tạo của nhà thơ, nhất là những tác giả già dặn về nghề. Đó không chỉ là kỹ thuật mà hơn thế, là thi pháp, là nội dung tư tưởng, khả năng cảm hứng và biểu đạt. Đó còn là ngôn ngữ và hình ảnh thơ, hình tượng thơ, được chưng cất công phu. Thơ có cất cánh bay cao và xa được chính là ở tư tưởng trong ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ không còn là nguyên sinh của đời sống.
Dĩ nhiên, xét về tỷ lệ, thơ dự Giải chưa có nhiều bài như thế. Thơ chưa tạo được “ma lực” riêng để ám ảnh ở miền vô thức. Vẫn còn những bài thơ thiếu ngôn ngữ trau chuốt, thiếu những “nhãn tự” và hình ảnh độc sắc. Do sử dụng ngôn ngữ, cách gieo vần, phương pháp phối thanh nên không ít bài thơ chưa nhiều nhạc tính và âm điệu. Bài thơ vì thế chưa tạo được những rung động mạnh về mĩ cảm ở người đọc. Bài thơ chưa vươn tới điều cần muốn là “ý tại ngôn ngoại”, hình tượng thơ khó phát triển theo xu hướng “đồng sáng tạo”. Có thể hiểu, đây là những bài thơ kém duyên. Mặt khác, thơ còn thiếu hằng số giá trị của thơ: Ngôn ngữ, hình ảnh, âm điệu và nhạc tính.
Hạn chế về sử dụng ngôn ngữ ở người làm thơ cũng bộc lộ rõ ở không ít những trang văn xuôi. Vẫn đâu đó những lỗi về chính tả, dùng từ chưa chuẩn, vốn hiểu biết về ngôn ngữ dân tộc thiểu số chưa thực sự chính xác khi thể hiện. Vẫn còn đâu đó những tư liệu, sự kiện chưa chính xác như vốn có trong hiện thực cuộc sống. Sự dụng công trong ngôn ngữ và dẫn liệu có thể hiểu một phần do người sáng tác còn chưa vươn tới yêu cầu cần và đủ về vốn sống và khối tài nguyên kiến văn. Ngược lại, có những tác phẩm còn lệ thuộc quá nhiều vào tầm chương trích cú, làm mờ đi cá tính sáng tạo của chủ thể thẩm mĩ. Vẫn còn tác phẩm ít những phát hiện và xử lý tình huống thông tuệ. Hoặc tác phẩm chưa xây dựng tính cách nhân vật và hoàn cảnh trọng đại điển hình; xung đột khai triển chưa với tới chiều sâu, hoặc thiếu thống nhất, hoặc kết thúc hụt hẫng. Hình tượng nghệ thuật do đó cảm giác còn chông chênh. Cái đáng “thừa” trong tiểu thuyết vẫn thiếu, ngược lại cái đáng “tinh” trong truyện lại thừa. Điều này dẫn đến những đoạn văn trần thuật dàn trải, thiếu các lớp thông tin cần thiết, tạo trường cảm có phần dư thừa. Nếu như sự đam mê trong sáng tác, chân thật trong thể hiện là điểm mạnh của nhiều tác giả, thì bên cạnh đó, sự phát hiện về tình tiết, chi tiết; công phu trong cấu trúc và tạo dựng; lãng mạn và bay bổng của hình ảnh, đặc biệt chất nhân văn của tác phẩm là những đặt hàng ở nhiều tác phẩm. Nhưng, để khép lại những cảm nhận của mình, chúng tôi cho rằng, Giải thưởng về Văn học lần thứ II của tỉnh Lâm Đồng đã khẳng định một giai đoạn với nhiều thành công về tác phẩm và đội ngũ sáng tác trong tiến trình văn học địa phương./.