Ven bờ Đạ Rnga, ngày ấy và bây giờ

TAP CHÍ LANGBIAN|8/24/2022 9:38:51 AM

Ven bờ Đạ Rnga, ngày ấy và bây giờ

                                                                                                    TRẦN ĐẠI

 

Đạ Rnga là tên con sông nhỏ chảy uốn lượn qua hàng chục buôn làng K’ Ho, Mạ ở Bảo Lộc - Bảo Lâm trước khi nhập vào sông La Ngà đổ về hồ thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi. Vào mùa nắng, dòng nước xanh trong thấy đá chập chờn dưới đáy. Ngày xưa con sông này được bà con xem là con nước thiêng, còn bây giờ nó là vật cứu tinh cho hàng ngàn hecta cà phê, chè khi vào mùa khô hạn. Ven bờ Đạ Rnga là những chứng tích thăng trầm của đất và người hàng bao thế hệ.

Lâu dần trở thành thông lệ vì hàng năm cứ vào những ngày sau Tết là có vài anh em K’Ho, Mạ… điện thoại rủ tôi vào buôn ăn nhậu tổng kết chuyện đời, chuyện trời. Và cứ mỗi năm câu chuyện mang thêm màu sắc, quần áo và thức ăn cũng dần đổi khác. Năm nay tôi diện bộ K’Ho vào buôn, đến khi nhập tiệc nhìn xung quanh chỉ có mình tôi là dân tộc thiểu số còn bà con đã trở thành đa số. Áo quần của các bạn tôi đẹp và mới hơn trong khi bộ K’Ho của tôi đã qua 4 lần cà phê nở. Đã có người nhìn tôi cười còn vỗ tay đôm đốp chào mừng người anh em đã gắn bó với nhau qua mấy mùa bông bí.

Ven bờ Đạ Rnga một thời ký ức

Trước năm 1954, các buôn B’Đơ, B’Kọ, B’Lá, B’Su Mang Ly (Bảo Lâm)… mỗi buôn có 5-7 nhà dài, mỗi nhà có 8-10 gia đình của người K’Ho, Mạ nằm ở ven sông Đạ Rnga. Một số người dân bản địa tại đây đã từng làm công phục dịch cho các đồn điền trà Pháp - Việt như: Bảo vệ, cắt cỏ cho ngựa, đi mua thức ăn cho heo, có người làm cả lái xe kiêm thông dịch, nhưng đa số bà con vẫn kiếm sống từ rừng.

Đầu năm ghé thăm cụ K’Bàn người Mạ gần 100 tuổi ở buôn B’Lá xưa, bây giờ là thị trấn Lộc Thắng thuộc Bảo Lâm. Người già luôn sống bằng quá khứ, cho dù đang thức hay ngủ vẫn hiện về mồn một mà không cần kịch bản trường quay hay đạo cụ ánh sáng. Thỉnh thoảng có dịp đi ngang qua, tôi vẫn dành thời gian ghé thăm ông, và cứ mỗi lần được gặp, ông say sưa kể về một thời oanh liệt của mình. Ông K’Bàn là người có phong cách giao tiếp lập dị, mỗi khi gặp người kinh lạ đến nhà thăm, ông thường nói tiếng Pháp. Vì trước đây ông là lái xe kiêm thông dịch cho các ông chủ đồn điền của Tây (Pháp). Việc ông sử dụng ngoại ngữ có lẽ để biết người đối diện là ai hoặc để chứng tỏ mình là người sắc tộc có đẳng cấp. Ông K’Bàn chưa qua trường lớp tiếng Pháp nào nhưng ông nói tiếng Tây như “gió”, ngặt là thời buổi  hiện nay, tiếng Tây đã trở thành “ngôn ngữ xưa”. Vì thế mỗi lần gặp tôi, ông rất mừng như hai người bạn lâu ngày gặp lại. Hai năm gần đây ông bị tai biến, âm sắc lại càng khó nghe hơn. Tuy nhiên ông vẫn rỉ rả tiếng Pháp pha trộn âm sắc K’Ho giống như người Việt nói tiếng Anh giọng Quảng Nam, ví dụ: Tu mó rao, Ai gao tu Đòa Loạt (Tomorrow, I go to Đà Lạt) người nghe phải có khả năng nhận ra âm sắc vùng miền mới có thể hiểu được. Bằng tiếng Pháp “giả cày” cụ kể cho tôi nghe chuyện buôn làng một thời xa vắng và cũng thông qua cụ, tôi biết được nhiều sự kiện nguyên chất. Trong những lần gặp tôi, bất kỳ câu chuyện gì ông cũng mở đầu bằng thuật ngữ Antan (ngày xửa, ngày xưa) rồi nghĩ một tí mới tiếp tục, ông “Antan” như nói với mình: “Ngày xưa người dân tộc không có nước máy, không biết đào giếng nên chỉ bám theo dòng suối dòng sông để lập buôn làng. Con sông Đạ Rnga được bà con xem là dòng nước thiêng, sông này phát nguyên từ dãy Lú Lùng chảy qua buôn B’Lá rồi qua buôn B’Kọ, Nau Sri xuống Đạ Bin, Sapung đi cả 40 chà gạc (người dân tộc đi rừng mang theo chà gạc để làm vũ khí phòng thân luôn vắt trên vai, đi khoảng 3km đổi vai. Vậy đi 40 chà gạc khoảng 120km)”. Đối với bà con, buôn làng nào cũng có vài bến nước, bến của đàn ông, bến dành cho đàn bà hoặc bến nước thiêng ở đầu buôn dùng để lấy cúng thần. Người K’Ho được chia làm hai nhóm là Nộp và Chrê.

Người Nộp sống trên vùng bán sơn địa làm rẫy, người Chrê sống ở vùng trũng làm ruộng. Tất cả các cư dân này cho dù sống ở cao hay thấp cũng đều bám theo dòng nước để tồn tại. Người K’Ho, Mạ có thói quen chỉ tắm giặt ở một bến nước cố định. Nơi đó còn gọi là bến tắm, bến tắm thường được hình thành một cách tự nhiên ở những nơi có không gian rộng rãi, thoáng đãng cũng là nơi giao hòa, hội tụ, hợp nhất giữa trời, đất, nước và con người. Chính vì vậy, nơi ấy trở thành không gian văn hóa, tâm linh của các dân tộc thiểu số vùng cao là nơi vừa trần tục, lại vừa thiêng liêng. Ngày Nhà nước đắp đập ngăn dòng chảy sông La Ngà để xây đập thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi, hàng trăm gia đình Nộp - Chrê phải dời đi nơi khác. Mỗi gia đình này được đền bù cho mộti căn nhà mới xinh đẹp kể cả giếng đào sử dụng nước ngầm. Vì vậy, mỗi lần tắm giặt một mình lặng lẽ, bà con lại nhớ về bến nước nhớ những tiếng cười, nhớ tiếng hò hét, tiếng tóe nước vào nhau rạt rào và nhớ cả những lời hò hẹn. Mất đi bến nước họ cảm thấy mất đi nét văn hóa ven sông của một đời người.

Năm 1962 gần như tất cả các buôn đầu nguồn Đạ Rnga được chính quyền chế độ cũ gom về chân núi Sapung để thành lập ấp chiến lược sinh sống, vì nơi đó có hai dòng nước giao nhau, nhiều tôm cá và đất rộng phì nhiêu để trồng lúa bắp. Đến ngày đất nước thống nhất bà con xin về làng cũ bây giờ. Tuy nhiên vào thời điểm trở lại quê là lúc nhiều gia đình ly tán, người theo Fulro, người về với chính quyền mới. Không ít gia đình gồng gánh về lại chốn xưa trong niềm vui mới xen lẫn ngậm ngùi vì còn người thân ở lại…

Ông K’Prẻoh 68 tuổi người K’Ho, bây giờ là đại gia cà phê, nhà cao cửa rộng ở buôn B’Kọ, đã từng là lính chế độ cũ mang lon hạ sĩ nhất. Ông có cha ruột là cán bộ đảng viên nên được tham gia du kích địa phương truy quét Fulro lập nhiều chiến công được Nhà nước khen thưởng. Những ngày sau Tết, đại gia K’Prẻoh ngất ngưởng rượu bia, trong cơn say ngà ngà, ông cầm tay tôi giật giật: “Chuyện đánh đấm Fulro cũng dễ mà khó, ở ven sông này, tụi nó có mấy chục thằng lẩn trốn trong rừng thiếu ăn, thiếu đạn. Mình càn vô cấp đại đội không cần nổ súng, chỉ bóp “trym” cũng đủ chết, nhưng khốn nỗi bộ đội nhà mình đâu biết ai là Fulro thiệt, ai giả, vì nếu nó bỏ súng là thành dân thường mà. Còn như tui nhìn mặt với nước da tai tái là biết ngay. Mấy thằng quen hoặc bà con thì dễ òm, mình bắn tiếng với chúng nó rằng sẽ an toàn nếu về với bà con, tao dẫn đi trình diện rồi về nhà làm ăn.

Buôn làng ở ven sông Đạ Rnga hôm nay cuộc sống khác xưa thật nhiều, bà con không còn trồng lúa, bắp khoai chỉ trồng cà phê, chè. Ngày mồng 10 Tết gặp các chị đi trên đường bê tông trong thôn xóm với áo quần rực rỡ sắc màu, tôi giả vờ hỏi: “Năm nay nhà thu được nhiều lúa không chị ơi!” Các chị nhìn tôi từ đầu tới chân thương hại: “Bây giờ đâu còn ai trồng lúa nữa, trồng lúa sao đủ ăn, ông ở đâu mới tới hả.”

Người đi tìm thương hiệu thổ cẩm

Đa số người dân tộc gốc Tây Nguyên bây giờ đời sống vật chất khá cao từ khi Nhà nước vận động chuyển sang trồng cà phê gần như không ai ở nhà sàn nữa thay vào đó là nhà xây cấp 4, ra đường đi xe máy, điện thoại di động cầm tay. Dân lạ đến Tây Nguyên đôi khi vào làng rồi vẫn nghĩ là thôn xóm của người Kinh. Năm rồi tôi dẫn một người bạn Sài Gòn đến thăm làng K’Ho - Đạ Nghịch, lúc dừng chân ở giữa làng nhưng bạn vẫn hỏi đến buôn chưa. Vì có quá nhiều nhà xây, trước sân là hoa giấy đỏ tươi. Cuộc sống từ lợi tức cây công nghiệp đã phục vụ cho người như quần áo, gạo, thực phẩm đều mua chợ, đồng nghĩa với các nông cụ dần dần mất đi. Đến Nam Tây Nguyên hiện nay khó tìm thấy cảnh tắm suối, giã gạo, nhiều đám cưới chú rể người K’Ho mặc áo vest nhảy vũ điệu valse như Tây.

Trên đường đến buôn B’Su Mang Ly xưa, nay là xã Lộc Tân, tình cờ gặp lại K’Met một trung niên người Mạ sinh năm 1975. K’Met là một đại gia cấp xã, anh có 4 mẫu cà phê, một máy cày và căn nhà 2 tầng khang trang. Lần này gặp anh đang ngồi quán ăn cơm sườn, hút thuốc lá con mèo phì phèo rung đùi nghe nhạc. K’Met mời tôi vào nhà ăn Tết, anh khoe: “Nhà có bia Sài Gòn xanh, có cá dưới ao, hai anh em mình làm chút chút cho đời  thêm hoa lá!” Khi men bia đã thấm, K’Met gật gật đầu: “Trong đời làm thằng đàn ông của người Mạ có ba điều vui. Điều thứ nhất mình được mẹ đẻ ra, điều thứ hai được cưới vợ và điều thứ ba là được về với Yàng. Ông có biết vì sao ngày xưa người Mạ chết 7 ngày mới chôn không”. “Chắc do phong tục”, tôi đoán mò: Ngày xưa ở trong rừng làm gì có hòm sẵn để chôn. Sau khi nhà có người thân chết, dòng họ nhờ 5 người đàn ông vào rừng hạ cây to rồi chặt ra dài 2m, sau đó dùng rìu khoét bụng cây, làm nắp hòm, “cơm ăn cơm dỡ” 7 ngày mới khiêng về tới nhà. Trong lúc chờ đợi ngày chôn, bà con hàng xóm kéo đến ăn uống chia vui, người khá giả mang heo, người nghèo mang gà mang rượu mang gạo đóng góp, có người rượu vào ngồi một mình hát yalyau ngon ơ! Vì chết là niềm vui thứ ba mà. Bây giờ nhà có người chết ra tiệm mua cái hòm là xong. Thôi bỏ chuyện đó đi ông ơi! Mới Tết mà nói chuyện chết chóc xui lắm!” - K”Met tự kể và tự dừng.

Sau bữa tiệc đầu năm, K’Met dẫn tôi đến nhà K’Hải. Anh Hải là người kinh nhưng được bà con Mạ cho mang họ K, vì ông là người sống trong buôn, người bỏ công sức và tiền bạc ra thành lập đội cồng chiêng và phục hồi văn hóa thổ cẩm K’Ho, Mạ. Anh Hải chào đón chúng tôi dưới tán cây xanh trước cửa nhà với bộ rễ sần sùi tỏa bóng mát.

Anh K’Hải tên thật là Nguyễn Đức Hải sinh năm 1964 tại Hà Tây cũ, vào B’Lao năm 1992 và định cư ở buôn B’Su Mang Ly năm 2000. Nhìn cơ ngơi đồ sộ của anh là một giấc mơ của nhiều người, ngôi nhà rộng thênh thang, bên trong được trang trí mang hình bóng sơn dã. Hai đứa con trai của anh đều tốt nghiệp đại học. Ở Bảo Lâm, đặc biệt người sống giữa rừng có con tốt nghiệp đại học là điều quý hiếm. Điều tôi thấy lạ, là trong thời gian hai anh em ngồi chung xe máy, gặp người quen dân tộc nào anh cũng có câu chuyện để nói cười vui vẻ hoặc mời vào quán làm lon bia cho mát ruột. Anh luôn chủ động hỏi thăm chuyện nhà cửa con cái, rồi giúp họ những gì có thể như xin việc hoặc làm giấy tờ không kèm điều kiện. Chính vì hành động thiện nguyện ấy, bà con trong buôn xem anh như một vĩ nhân xã lẻ. Đi với anh vài giờ, tôi mới nhận ra đó là phong thái của một nhà kinh doanh chân đất, là làm bạn với tất cả mọi người trước khi làm ăn theo nguyên lý cho là nhận, khác với những người giàu có khác.

Khi được hỏi vì sao anh mang họ K’. Thường một người Kinh được bà con cho mang họ mình phải là công dân ưu tú, gắng bó với buôn làng bằng cái tâm. K’Hải bập điếu thuốc lá lặng lẽ: “Đó là một quá trình dài, người chăm lo cho cá nhân thì cuộc sống riêng dư dả, người lo cho xã hội bằng cái tâm thu nhập ít hơn nhưng được mọi người trân trọng. Tôi trở nên khá giả từ buôn làng nhờ trồng chè rồi làm thầu khoán xây dựng mua đất xây nhà rồi bán, nhưng tiền bạc biết bao nhiêu là đủ. Hàng ngày tiếp xúc với các già làng như K’Mót, K’Xéo - các ông vẫn đau đáu nghĩ về nghề thổ cẩm một thời nổi tiếng của buôn B’Su Mang Ly, bây giờ không còn nữa. Sống với bà con 15 năm tại đất rừng, tôi nhận ra một điều, mỗi lần đám cưới cha mẹ hai bên gia tộc phải mặc quần áo truyền thống, khi chết cũng phải mặc quần áo kèm theo cái mền 2x2m truyền thống để chôn, giá tiền cả triệu bạc. Khi gia đình của ai rơi vào thời điểm đó phải chạy đôn chạy đáo, nhiều khi có tiền mà không mua được trang phục nên trông rất tội nghiệp. Chính vì thế tôi bỏ ra thời gian để nghiên cứu hoa văn, họa tiết và các loại sợi và khung cửi để bà con trở lại nghề, chủ yếu là phục dựng lại nghề dệt một thời nổi tiếng.

Lúc đầu tôi tìm ra vài người dệt có tay nghề cao, giao sợi cho họ rồi hẹn ngày lấy sản phẩm trả tiền công luôn. Các sản phẩm này nhập kho coi như bảo tồn văn hóa và có thể sử dụng cho đám cưới, đám ma. Dần dần bà con Mạ tìm đến rồi sản phẩm nhiều thêm nên tôi mở một Công ty Bảo Thiên với chức năng bảo tồn văn hóa người Mạ. Anh biết đấy, vì ham thích nghề dệt thổ cẩm nên tôi thường đi tham quan mua nhiều sản phẩm dệt thủ công từ Nam ra Bắc. Nhìn những tấm vải làm bằng tay từ các nơi, tôi mới nhận ra thổ cẩm của người Mạ có họa tiết hoa văn độc đáo như Chum, chóe, chim, người giã gạo, điệu con, mặt trời… Nghề dệt thổ cẩm của buôn một thời ngủ quên, nay bừng sống. Người già ngồi trước cửa dệt cả ngày, người trẻ tranh thủ thời gian rảnh rỗi”. Anh Hải còn cho biết, anh lấy tiền nhà dẫn bà con đi tham quan nghề dệt ở buôn K’Long Đức Trọng và làng Mỹ Nghiệp của đồng bào Chăm Phan Rang, mãi hai năm sau mới được tỉnh công nhận là làng nghề. Đến lúc được nhiều hàng, Anh Hải mang sản phẩm đi chào từ Nam chí Bắc ký được vài hợp đồng nhưng đa số các đại lý đều từ chối vì mặt hàng này rất khó bán. Tuy nhiên họ còn động viên: “Làm kinh doanh văn hóa mục đích là giữ gìn giá trị truyền thống dân tộc là chính phải từ từ đi lên”. Sau này anh gặp được ông Phạm Hữu Thọ, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng. Kết quả lương duyên ấy là sự ra đời của Trung Tâm bảo tồn văn hóa dân tộc. Nơi đó thổ cẩm Mạ được tiếp cận với khách hàng.

Những ngày đầu tháng 3/2022, K’Hải bất ngờ điện thoại cho tôi (anh vui vẻ cho biết xin số điện thoại của tôi từ anh Hà Hữu Nết, giờ ổng làm Chủ tịch Hội VHNT Lâm Đồng ông ơi!) dẫn tôi đi vào thăm khu du lịch nghỉ dưỡng ở xã Lộc Tân. Nhìn những những biệt thự mới này, tôi nhớ đến buôn làng, nhớ đến già làng K’Mót, K’Pộp trong cơn say cầm vai tôi lắc lắc: “Các buôn ven sông Đạ Rnga này mang ơn thằng K’Hải, nhờ nó mà B’Su Mang Ly của tao thấy lại đội múa cồng chiêng, thấy cái sợi chỉ, cái khung dệt. Nhà nào cũng cộc cạch tiếng dệt thổ cẩm vui cái tai, mát cái bụng. Nếu bán chưa được thì để đó tao giới thiệu cho, bây giờ buôn nào cũng giàu có rồi không phải như  xưa, từ từ bà con cũng mua hết mà!”./.

                                                  

                                                 

 

 

 

Ven bờ Đạ Rnga, ngày ấy và bây giờ